Ngôn ngữ Anh: Nguyên lý lịch sự của Brown và Levinson và dịch thuật
NGUYÊN LÝ LỊCH SỰ CỦA BROWN VÀ LEVINSON & DỊCH THUẬT
nguyễn phước vĩnh cố
Nói tới nguyên lí lịch sự là nói tới khái niệm thể diện. Brown và Levinson phân biệt hai loại thể diện:
-Thể diện dương (Positive face): Mong muốn có sự tán đồng, yêu thích tức là ‘bản thân mong muốn được sự đồng tình và tôn trọng của người khác’ (Positive self-image and the desire that this self-image be appreciated and approved of).
-Thể diện âm (Negative face): Không mong muốn người khác áp đặt cho mình tức là ‘mong muốn được tự do hành động mà không bị sự áp đặt của người khác (The basic claims to freedom of action and freedom from imposition).
Trong nghiên cứu phép lịch sự, Brown và Levinson phân biệt:
- Chiến lược lịch sự dương (Positive politeness strategies): Chiến lược biểu thị tính gần gũi, thân mật và quan hệ tốt đẹp giữa người nói và người nghe (Those which show the closeness, intimacy, and rapport between speaker and hearer).
- Chiến lược lịch sử âm (Negative politeness strategies): Chiến lược chỉ khoảng cách xã hội giữa người nói và người nghe (Those which indicate the social distance between speaker and hearer).
Các từ ngữ chỉ phép lịch sự gồm các khác biệt giữa lời nói trang trọng và lời nói thân mật và việc xử dụng hình thái xưng hô. Tuy nhiên, trong nghiên cứu ngôn ngữ, phép lịch sự được biểu thị ở hai điểm chính sau:
a) Ngôn ngữ biểu thị như thế nào khoảng cách xã hội giữa người nói và các mối quan hệ đóng vai trò khác nhau giữa họ (how languages express the SOCIAL DISTANCE between speakers and their different ROLE RELATIONSHIPS.
b) Hành động thể diện, tức là cố gắng thiết lặp duy trì và giữ thể diện trong khi trò chuyện được thực hiện như thế nào trong một cộng đồng nói năng (how face-work, that is, the attempt to establish, maintain, and save face during conversation, is carried out in a speech community).
Các ngôn ngữ khác nhau ở chỗ chúng diễn tả phép lịch sự như thế nào. Trong việc diễn tả phép lịch sự qua việc sử dụng hình thái xưng hô cụ thể , tiếng Anh và tiếng Việt khác nhau ở các đặc điểm chính sau. Tiếng Anh thuộc về các ngôn ngữ diễn tả phép lịch sự dựa vào cá nhân, tiếng Việt dựa thuộc các ngôn ngữ diễn tả phép lịch sự dựa vào các chiến lược lịch sự quy định bởi các chuẩn mực xã hội. Chính vì vậy ở tiếng Anh phép lịch sự cần được tập trung nghiên cứu nhưng ở tiếng Việt, cái gọi là lễ phép (deference) phải đặc biệt chú trọng. Lễ phép trong giao tiếp ở các cộng đồng nói năng Phương Đông thường bị chi phối bởi lễ giáo Khổng Tử. Đây chính là khác biệt chủ yếu về ngôn ngữ qua các nền văn hóa giữa tiếng Anh và tiếng Việt. Điển hình nhất là khi xem xét cặp đại từ xưng hô ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai trong tiếng Anh “I và You” khi đem so sánh đối chiếu với tiếng Việt thì ngoài một số đại từ ngôi một và ngôi hai thì hệ thống xưng hô tiếng Việt còn sử dụng từ thân tộc (kinship) có số lượng gấp hàng chục lần (có khoảng 34 cặp) và có chức năng tương đươngvới cặp đại từ “I và You”. Từ đây có thể nói trong hệ thống xưng hô tiếng Anh hiện tượng chỉ dùng từ I – ngôi thứ nhất số ít và You – ngôi thứ hai (ít và nhiều) là một phương sách tạo ra khoảng cách (chiến lược lịch sự âm) và ở tiếng Việt hiện tượng dùng từ thân tộc trong xưng hô là một phương sách tạo ra sự gần gũi (chiến lược lịch sự dương). Xét từ góc độ giao tiếp đây chính là yếu tố văn hóa quan trọng nhưng xét từ góc độ dịch thuật bên cạnh yếu tố văn hóa người dịch còn phải tính đến các yếu tố khác như các loại dịch (tương đương hình thức hay tương đương động), các loại văn bản (thông tin, biểu cảm…), mục đích của dịch.....
Tài Liệu Tham Khảo
1. Brown & Levinson (1987). Politeness: Some Universals in Language Usage, Cambridge University Press.
2. Richards & at al (1999). Longman Dictionary of Language Teaching & Applied Linguistics.
Đà thành, 26/10/16